Soạn văn 12
Nhân vật giao tiếp
Hướng dẫn trả lời
Xác định đặc điểm của nhân vật giao tiếp, sự chuyển đổi vai giao tiếp, vị thế xã hội, quan hệ thân sơ...trong đoạn trích sau:
Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
– Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
– Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
– Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
– Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ ! – Thị liếc mắt, cười tít.
(Kim Lân, Vợ nhặt)
a. Đoạn trích trong truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân) gồm hai nhân vật Tràng và thị:
- Về lứa tuổi: tương đương nhau.
- Về giới tính: Tràng là nam, thị là nữ.
- Về tầng lớp xã hội: đều là thuộc tầng lớp lao động nghèo khổ.
b. Các nhân vật luân phiên lượt lời, đổi vai nói và vai nghe cho nhau:
- Lượt 1 (Kìa anh ấy gọi…với anh ấy): mấy cô gái nói, Tràng và thị nghe.
- Lượt 2 (Có khối cơm trắng…hay nói khoác đấy?): thị nói, Tràng và mấy cô gái nghe nhưng chủ yếu người nói hướng tới nhân vật Tràng.
- Lượt 3 (Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!): Tràng nói, thị nghe.
- Lượt 4 (Đã thật…ấy nhỉ): thị nói, Tràng nghe.
c. Các nhân vật giao tiếp bình đẳng về vị thế xã hội.
d. Họ có quan hệ xa lạ khi bắt đầu cuộc giao tiếp, những lượt lời trong đoạn hội thoại tuy có cách xưng hô và lời lẽ có vẻ thân tình nhưng đó chỉ là những câu nói đùa.
e. Những đặc điểm về vị thế xã hội, quan hệ thân sơ, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp…chi phối trực tiếp đến cách xưng hô, cách nói năng và các yếu tố phi ngôn ngữ khi giao tiếp.
- Vì tương đương tuổi tác và cùng vị thế xã hội nên các nhân vật trong đoạn hội thoại trên có sự vui đùa tếu táo, suồng sã, không e ngại.
- Do giới tính khác nhau và sự xa lạ trong quan hệ nên các lời thoại mang tính đưa đẩy, chọc ghẹo và ít sử dụng đại từ nhân xưng cụ thể (mà dùng nhà tôi, đằng ấy).
Xác định nhân vật giao tiếp, vị thế xã hội, chiến lược giao tiếp trong đoạn văn sau:
Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:
- Các bà đi vào nhà: đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?
Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:
- Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?
Không ai nói gì, người ta dần dần tản đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng. Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:
- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế ?
Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:
- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mầy đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.
- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?
Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:
- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.
Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.
Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:
- Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.
Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, cụ quát:
- Lý Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo người ta đun nước, mau lên!
(Nam Cao, Chí Phèo)
a. Trong đoạn trích có những nhân vật giao tiếp sau: Bá Kiến, Chí Phèo, Lí Cường, mấy bà vợ, dân làng hiếu kì. Đoạn trích có 9 lượt lời, trong đó lượt lời số 1 và 2 Bá Kiến nói cho nhiều người nghe, các lượt lời 3,5,6,7,8 nói với một người nghe là Chí Phèo, lượt lời thứ 9 nói cho cả Chí Phèo và Lí Cường nghe.
b. Đối với mỗi đối tượng khác nhau, Bá Kiến có vị thế khác. Điều này chi phối đến cách nói và lời nói của Bá Kiến:
- Với mấy bà vợ: vị thế của Bá Kiến là chồng – mối quan hệ gia đình (cao hơn vợ trong xã hội xưa) nên hắn quát mắng và ra lệnh.
- Với dân làng: vị thế của Bá Kiến là giai cấp thống trị - mối quan hệ xã hội (có quyền lực, có của cải và uy danh với người làng) nên hắn yêu cầu dân làng ra về.
- Với Chí Phèo: vị thế của Bá Kiến là bề trên (hơn về tuổi tác, địa vị xã hội) nhưng vì chính Bá Kiến đẩy Chí Phèo đến nông nỗi này và hắn muốn xử êm để sau còn biến Chí Phèo thành công cụ nên hắn cố ý xưng hô bình đẳng (tôi – anh), cách nói xoa dịu, vỗ về.
- Với Lí Cường: vị thế của Bá Kiến là bố (bề trên) nên được quyền quát (dù Bá Kiến quát ở đây chủ yếu là để Chí Phèo nghe và vỗ về sĩ diện cho Chí Phèo).
c. Đối với Chí Phèo, Bá Kiến đã thưc hiện một chiến lược giao tiếp.
- Hắn đuổi hết mọi người về để cô lập Chí Phèo, khiến hắn mất hết đám đông và không còn khí thế ăn vạ. Mặt khác, đám đông ra về thì Bá Kiến cũng dễ bề dỗ dành, lừa gạt Chí Phèo.
- Bá Kiến “hạ nhiệt” Chí Phèo bằng nhiều cách: lối xưng hô có vẻ bình đẳng (tôi-anh); cách nói thân mật, dỗ dành, quan tâm, tôn trọng; nội dung lời nói thân thiết, gần gũi.
- Bá Kiến nâng vị thế của Chí Phèo, cho Chí Phèo ở thế thắng: xưng hô ngang bằng; nhận Chí Phèo là họ hàng; gộp ngôi xưng “ta”, “người lớn cả”.
- Kết tội Lí Cường một cách nghiêm khắc “nóng tính, không nghĩ trước nghĩ sau”, “tội mày đáng chết” và yêu cầu Lí Cường tiếp đón Chí Phèo nhằm lấy lại sĩ diện cho Chí Phèo, xử nhũn để Chí Phèo hoàn toàn mất hết “nhuệ khí” và lí do để làm mình làm mẩy.
d. Với chiến lược giao tiếp xảo quyệt và hoàn hảo, Bá Kiến đạt được trọn vẹn mục đích và hiệu quả giao tiếp của hắn: mấy bà vợ vào nhà, dân làng tản đi, Chí Phèo nguôi cơn ăn vạ và làm theo những gì Bá Kiến bảo.
Luyện Tập
Phân tích sự chi phối của vị thế xã hội ở các nhân vật đối với lời nói của họ trong đoạn trích sau:
Anh Mịch nhăn nhó, nói:
- Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấy đánh chết.
ông lý cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:
- Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi.
- Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông Nghị ghét con, cả nhà con khổ.
- Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?
- Đối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói.
- Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm, đứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù.
- Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.
- Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương taọ Hôm ấy mày mà không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.
(Nguyễn Công Hoan, Tinh thần thể dục)
Anh Mịch:
- Vị thế xã hội: Kẻ dưới- nạn nhân bị bắt đi xem đá bóng.
- Lời nói: Van xin, nhún nhường (gọi ông, lạy…)
Ông Lí:
- Vị thế xã hội: Bề trên- thừa lệnh quan bắt người đi xem đá bóng.
- Lời nói: Hách dịch, quát nạt (xưng hô mày tao, quát, câu lệnh…)
Phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm vị thế xã hội, nghề nghiệp, giới tính, văn hóa...của các nhân vật giao tiếp với đặc điểm trong lời nói của từng người ở đoạn trích sau:
Bỗng dưng tất cả dừng lại, dưới cây đũa thần, hay đúng hơn dưới ngọn roi gân bò mà viên đội xếp Tây vừa vung lên vừa quát tháo: "Cái giống tởm nhà mày! Có cút đi không, cái giống tởm!" Thế là cái đám đông lúc nhúc đứng sắp hàng, vừa yên lại vừa lặng, hai bên lề đường. Gì thế nhỉ? Xe ô tô quan Toàn quyền sắp đi qua đấy... Xe kia rồi! Lại cả ông Toàn quyền đây rồi!
- Quan có cái mũ hai sừng trên chóp sọ! Một chú bé con thầm thì.
- Ồ! cái áo dài đẹp quá! Một chị con gái thốt ra.
- Ngài sắp diễn thuyết đấy! Một anh sinh viên kêu lên.
- Đôi bắp chân ngài bọc ủng! Một bác cu-li xe thở dài.
- Rậm râu, sâu mắt! Một nhà nho lẩm bẩm.
Thế là ô-tô ông Va-ren chạy qua giữa hai hàng rào con người, lưng khom lại khi ngài đến gần. Cùng lúc, một tiếng rào rào nổi lên: "Lạy quan lớn! Bẩm lạy quan lớn ạ!" .
(Nguyễn Ái Quốc, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu)
- Đoạn trích gồm các nhân vật giao tiếp:
- Viên đội sếp Tây.
- Đám đông.
- Quan Toàn quyền Pháp.
- Mối quan hệ giữa đặc điểm về vị thế xã hội, nghề nghiệp, giới tính, văn hóa,… của các nhân vật giao tiếp với đặc điểm trong lời nói của từng người:
- Chú bé: trẻ con nên chú ý đến cái mũ, nói rất ngộ nghĩnh.
- Chị con gái: phụ nữ nên chú ý đến cách ăn mặc (cái áo dài), khen với vẻ thích thú.
- Anh sinh viên: đang học nên chú ý đến việc diễn thuyết, nói như một dự đoán chắc chắn.
- Bác cu li xe: chú ý đôi ủng.
- Nhà nho: dân lao động nên chú ý đến tướng mạo, nói bằng một câu thành ngữ thâm nho.
- Kết hợp với ngôn ngữ là những cử chỉ điệu bộ, cách nói. Điểm chung là châm biếm, mỉa mai.
Phân tích vị thế xã hội, sự tương tác về hành động nói, tính cách và cách ứng xử của các nhân vật giao tiếp trong đoạn văn sau"
Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- Bác trai đã khá rồi chứ?
- Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề, lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.
- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm dề dề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn?
- Vâng, cháu cũng đã nghỉ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã.
Nhịn xuông từ sáng hôm qua đến giờ còn gì.
- Thế thì phải giục anh ấy ăn mau mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa keo vào rồi đấy!
Rồi bà lão lại lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
a. Bà lão hàng xóm và chị Dậu có cung một vị thế xã hội như nhau: họ đều là những người nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến trước cách mạng tháng Tám. Quan hệ của họ là quan hệ láng giềng “tối lửa tắt đèn” có nhau, thực chất là tình thương yêu giai cấp giữa những người lao động với nhau. Vị thế và quan hệ đó đã chi phối lời nói và cách nói của hai người đối với nhau rất rõ.
- Bà lão: bác trai, anh ấy,…
- Chị Dậu: cảm ơn, nhà cháu, cụ,…
⇒ Cách nói thân mật, gần gũi.
b. Sự tương tác về hành động nói giữa lượt lời của hai nhân vật giao tiếp được thể hiện như sau:
- Câu 1: Bác trai đã khá rồi chứ? (Bà lão hỏi thăm).
- Câu 2: cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường…(chị Dậu cảm ơn).
- Những câu sau cũng có nội dung và cách nói tương tự như vậy.
c. Lời nói và cách nói của các nhân vật cho thấy:
- Tính cách tốt đẹp: bà cụ thương người, quan tâm nhiệt tình đến người bị nạn; chị Dậu thương chồng, săn sóc chồng chu đáo, mang ơn người đã cứu giúp chồng mình.
- Văn hóa đáng trọng: tuy là người lao động nhưng cách ứng xử và lời nói của họ đều chứng tỏ họ là những người có văn hóa đáng trân trọng.
Nhiều người quan tâm
-
Khái quát văn học Việt Nam từ đầu cách mạng tháng tám 1945 đến thế kỉ 20
-
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
-
Tuyên Ngôn Độc Lập - Hồ Chí Minh (Tác giả)
-
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
-
Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội
-
Tuyên Ngôn Độc Lập - Hồ Chí Minh (Tác phẩm)
-
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (tiếp theo)
Thảo luận